Khái niệm về nguyên nhân gây ung thư
Ước tính khoảng 60% đến 80% các bệnh ung thư có ngun gc từ môi trường. Phần lớn các bệnh ung thư gây ra bởi các chất hóa học độc hại trong môi trường, do vậy có khả năng ngăn ngừa. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng sự có mặt của các chất gây ung thư trong nước mặt, nước ngầm và nước uống đã được xử lý. Ngoài ra, trihalomethanes (THMs) có thể được tạo ra trong quá trình xử lý nước bằng clo.
Các con số thực tế về nước và ung thư tại Mỹ
Lượng các hợp chất hóa học được thải vào môi trường nước, trực tiếp hoặc gián tiếp, là đáng kinh ngạc. Hơn 2100 chất ô nhiễm hữu cơ và vô cơ đã được xác định trong nguồn nước uống ở Mỹ từ năm 1974. Trong số này, 190 chất gây ô nhiễm được xác nhận có ảnh hưởng xấu tới sức khỏe, như chất gây ung thư, gây đột biến, gây ra quái thai hoặc có độc tính.
Ngay cả với các tiêu chuẩn nước uống EPA, chúng ta không thể đảm bảo rằng nước chúng ta đang uống sẽ không làm suy yếu hệ thống miễn dịch hay dẫn đến ung thư. Nhiều tác nhân gây ung thư cần 20-30 năm gây ra triệu trứng. Mỗi người chúng ta có khả năng trao đổi chất khác nhau và phản ứng với chất gây ung thư theo các cách riêng. Và không có một ngưỡng giới hạn nào cho các chất gây ung thư.
Thông tin về một loạt các tác nhân gây ung thư trong nước uống: fluoride, khử trùng bằng clo và amiăng sẽ được trình bày sau. Tuy nhiên, trước khi xem xét, có một số nghiên cứu thú vị về các chất tích cực trong nước uống có thể giúp bảo vệ chúng ta khỏi bệnh ung thư. Nghiên cứu này tập trung vào bốn yếu tố: tổng chất rắn hòa tan (TDS), độ cứng, độ pH và silica.
Burton và Comhill phân tích nước uống của 100 thành phố lớn nhất ở Hoa Kỳ. Họ phát hiện tỉ lệ tử vong do ung thư từ giảm 10% đến 25% nếu nước uống có giá trị TDS cao vừa phải (khoảng 300 mg / L), nếu nước cứng, nếu nước có pH kiềm (trên 7.0) và nếu có hàm lượng silica 15 mg / L của silica.
Sauer cũng phát hiện một mối tương quan giữa silica và ung thư. Cụ thể là càng nhiều silica hơn bệnh ung thư sẽ ít hơn. Ngoài ra, ông còn phát hiện khi nước cứng ung thư sẽ giảm. Do vậy, nước uống có hàm lượng TDS và độ cứng cao giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh tim và tử vong do ung thư.
Một nhận xét về khảo sát silica: Nói chung, khi các nhà nghiên cứu tiếp tục nghiên cứu các yếu tố cụ thể trong nước uống và mối quan hệ đến ung thư, chúng ta sẽ thấy kết quả đa dạng và có thể mâu thuẫn. Ví dụ, một báo cáo từ Seneca County, New York tiết lộ hàm lượng cao của selenium trong nước uống có lien quan đến mức độ giảm đáng kể bệnh ung thư.
Kết luận về nước và ung thư từ các nghiên cứu khoa học
Khi các yếu tố cụ thể được phân tích, chúng ta thấy sự đa dạng và một số trường hợp gây nhầm lẫn hoặc kết quả trái ngược nhau. Tình huống này đã được quan sát với các nghiên cứu bệnh tim. Tuy nhiên, khi chúng ta nhìn vào các yếu tố của nước như TDS và độ cứng, có sự thống nhất cao, nghĩa là kết quả thể hiện rõ ràng.
Nghiên cứu của Button cho thấy nước có tính kiềm là yếu tố quan trọng khác làm giảm tỷ lệ tử vong do ung thư. Rất ít nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng đến sức khỏe của pH. Tuy nhiên, nhận xét của ông nhắc đến một trong những phát hiện của Schroeder. Schroeder quan sát thấy rằng pH sẽ giảm bệnh tim mạch hơn so với pH acid. Trong nhiều năm, người ta đã nghĩ rằng nước mềm có tính ăn mòn, nước mềm làm thôi ra chất như chì và cadmium từ đường ống nước. Nhưng nguyên nhân là pH gây ra tác động ăn mòn và chứ không phải là nước mềm do hàm lượng các khoáng chất như Ca hoặc Mg thấp. Nước kiềm tính sẽ không hòa tan kim loại nặng hay hóa chất từ mạ kẽm hay ống PVC vào nước uống.
Bức tranh tích cực xuất hiện từ nghiên cứu này là: uống nước có hàm lượng 300 mg / L TDS và nước cứng có pH hơn 7.0 sẽ giảm nguy cơ tử vong do ung thư.
Xem thêm: Lịch sử nghiên cứu về TDS của nước và bệnh tim
Nguồn: Healthy water for a longer life